/Chúng ta và Mỹ thuật Việt Nam/: Lê Thị Lựu

/Chúng ta và Mỹ thuật Việt Nam/ là sê-ri giới thiệu bốn gương mặt nổi bật đại diện cho nền mỹ thuật Việt Nam giai đoạn những năm thuộc thế kỷ XX bao gồm Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị LựuVũ Cao Đàm.

Lê Thị Lựu được ghi nhận “vừa là đại diện cho phụ nữ, vừa là đại diện tiêu biểu cho cả nền hội họa hiện đại Việt Nam” và là “minh chứng cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện đại trong hội họa Việt”. Theo tuần báo La Gazette Drouot, ngoài là một nhà nữ quyền, Lê Thị Lựu còn là nhân vật quan trọng trong lịch sử của nghệ sĩ Trường Mỹ thuật Đông Dương, “để lại cho hậu thế một minh chứng về con mắt tinh tường và đặc biệt trìu mến”.

Tiểu sử

Chân dung họa sĩ Lê Thị Lựu

Lê Thị Lựu (19.1.1911), quê tại làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm, Phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội); đây là nơi sinh, cũng là quê nội và quê ngoại của bà. 

Cha bà là Lê Văn Quế còn mẹ là Lê Thị Quế. Từ nhỏ đến năm 14 tuổi, Lê Thị Lựu đã theo cha, một công chức tòa sứ, đến nhiều tỉnh thành khác nhau, gồm Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng và Hà Nội. Cha Lê Thị Lựu là một trong những người theo Tây học đời đầu, cùng lớp với nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, nhà báo Ngô Văn Phú và Viện trưởng Viện Dân biểu Bắc Kỳ Phạm Huy Lục. Tuy vậy, ông vẫn bắt các con mình phải để tóc dài, nhuộm răng đen, vận quần thâm cho đến khi lấy chồng. Bà là chị cả trong số bốn chị em Lê Thị Lựu, Lê Thị Cẩn, Lê Thị Chương và Lê Thị Đào.

Vào năm 1925, bà đã đậu bằng Sơ học yếu lược, tuy nhiên, thay vì nhập học trường Nữ sinh Đồng Khánh (tiền thân trường Trưng Vương) như hai người em khác, Lê Thị Lựu lại thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1926.

Sau những tháng ngày học tập được xem là “không mấy suôn sẻ” vì nhiều bạn học nam ganh ghét (phần vì bà vẽ giỏi, lại là nữ), Lê Thị Lựu đậu thủ khoa của trường, khóa 3 năm 1927. Bà sớm được nhiều người biết đến thông qua hai bức sơn dầu vẽ năm 1929 “Thiếu nhi trong vườn chuối” và “Chân dung Ông Hai”, được trưng bày trong triển lãm chung đầu tiên của trường. Các sáng tác chủ yếu của Lê Thị Lựu giai đoạn này là tranh sơn dầu, trong đó, sở trường của bà là vẽ chân dung. 

Sau khi trở thành nữ sinh đầu tiên tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, bà nhanh chóng có được sự công nhận từ giới báo chí, đặc biệt là nhóm Tự Lực văn đoàn. Lê Thị Lựu từng nhận bổ nhiệm làm giáo sư tại nhiều trường học khác nhau trên khắp cả nước. Với tư cách là hướng đạo sinh, bà cũng sáng lập nên tổ chức “Bầy sói con Trứng Rồng”. Năm 1940, nữ họa sĩ cùng chồng là Ngô Thế Tân sang Pháp.

Dành phần lớn cuộc đời sống tại Pháp, Lê Thị Lựu đã gặp nhiều trở ngại trong cuộc sống gia đình và có lúc phải tạm ngưng vẽ tranh suốt nhiều năm, từ thập niên 1930 đến thập niên 1950, ngoại trừ một số bức được thực hiện vào những dịp đặc biệt khác nhau. Khoảng thời gian này, bà tích cực tham gia phong trào chống Pháp trong thời điểm hoạt động cách mạng diễn ra sôi động. 

Bà Lê Thị Lựu và chồng, kỹ sư Ngô Thế Tân. Ảnh chụp vào năm ông bà kết hôn với nhau, năm 1935, tại Bắc Ninh. 
Nguồn: Style-Republik.com

Khi trở lại hội họa, Lê Thị Lựu chuyên tâm theo đuổi dòng tranh lụa và kiên trì với trường phái cổ điển, cho ra đời nhiều tác phẩm gây được sự chú ý từ các triển lãm, cửa hàng tranh bên Pháp. Thời điểm đầu sáng tác, ba bức tranh lụa nhỏ của bà đã giúp đem về cho nữ họa sĩ giải nhất trong số các tranh và bà cũng được công nhận là thành viên thực thụ của Hội liên hiệp phụ nữ hội họa và điêu khắc Pháp. Trong những năm cuối đời, Lê Thị Lựu đã hoàn thiện nhiều tác phẩm thành công để lại dấu ấn trong sự nghiệp của mình. Họa phẩm cuối cùng mà bà xong trước khi mất là bức “Tam đại đồng đường”.

Xuyên suốt sự nghiệp sáng tác, số lượng tranh Lê Thị Lựu vẽ ước tính dao động khoảng 250 đến 500 bức. Tuy nhiên, các tác phẩm của bà, đặc biệt là tranh lụa, đã nhận về đánh giá cao từ những nhà phê bình chuyên môn và được đem đi bán đấu giá tại Christie’s, Sotheby’s… thu về số tiền kỷ lục. 

Vào năm 2018, nhà phê bình Thụy Khuê và chồng bà là ông Lê Tất Luyện, họ hàng của nữ họa sĩ, đã trao tặng Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh nhiều tranh vẽ, thư từ, thơ Lê Thị Lựu, đồng thời xuất bản cuốn sách Lê Thị Lựu, ấn tượng hoàng hôn, trong đó tổng hợp lại chi tiết cuộc đời nữ danh họa cùng cuộc sống của những họa sĩ người Việt từng tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương tại Pháp.

Lê Thị lựu mất cũng được xem là nữ họa sĩ đầu tiên của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam và nằm trong bộ tứ danh họa Việt tại Pháp: PhổThứ – Lựu – Đàm. Bà mất ngày 6. 6.1988.

Đặc trưng trong phong cách

Trong sự nghiệp sáng tác hội họa, Lê Thị Lựu từng đi theo nhiều trường phái khác nhau. Trước và sau khi đỗ vào trường, bà là họa sĩ theo đuổi chủ nghĩa hiện thực, khi học tại trường Mỹ thuật Đông Dương, bà được dạy vẽ theo trường phái cổ điển và đây là trường phái xuất hiện xuyên suốt trong các tác phẩm của bà. Bà cũng theo đuổi chủ nghĩa biểu hiện, có thể thấy rõ qua những họa phẩm bà sáng tác thời gian sống tại Pháp.

“Bến Honfleur”. 
Nguồn: Thuykhue.free.fr

 Ở lĩnh vực tranh sơn dầu, bà sở hữu lối vẽ tự nhiên, phi trường phái. Ở lĩnh vực tranh lụa, thời kỳ đầu, bút pháp và đề tài của Lê Thị Lựu đi theo hướng giống tranh cổ xưa nhưng màu sắc tươi hơn. Đến về sau thì bà hơi hướng  theo phong cách của Amedeo Modigliani, điển hình như bức “Ba mẹ con góa phụ” do bà vẽ năm 1954. Nữ họa sĩ cũng có một thời gian dài chịu ảnh hưởng theo trường phái ấn tượng ở tranh lụa, nổi bật trong đó là các danh họa Pierre-Auguste Renoir, Pierre Bonnard, v.v. Khác ở chỗ, bố cục, đề tài và màu sắc trong tranh của Lê Thị Lựu lại có sự riêng biệt, mang tinh thần phương Đông, Việt Nam.

Tác phẩm “Phẫn nộ”
Nguồn: Thuykhue.free.fr
Bức “Trẻ em nghịch hoa” của Lê Thị Lựu được mua với giá 207.821 USD trong phiên “Nghệ thuật Đông Nam Á hiện đại và đương đại” của nhà Sotheby’s Hong Kong, diễn ra từ lúc 10h ngày 1/4/2018.
Nguồn: Thethaovanhoa.vn

Bà đã được truyền dạy kiến thức và kỹ thuật hội họa phương Tây từ trường học. Trong những tác phẩm của mình, Lê Thị Lựu ít chú ý thiên về cái đẹp thuần túy và tính truyền thống, giống như ba người bạn Phổ – Đàm – Thứ, mà thay vào đó tập trung khai thác tâm lý của từng bức họa. Khác với giai đoạn đầu khi các bức tranh của bà đều có lối diễn tả hình thể nhân vật vững vàng, trong những tác phẩm về sau, nữ họa sĩ lại không quá chú trọng vào hình khối. Đối với màu sắc cho tranh, bà thường áp dụng bảng màu tươi sáng, ánh sáng êm dịu với các tông màu của xanh lam, xanh lục, hồng. Những cảm xúc của nữ họa sĩ gửi gắm vào đường nét và màu sắc trong tranh, được nhận xét là “mềm mại”, “dịu dàng”.

Sáng tác tranh lụa

Ban đầu, lúc đang học ở trường Mỹ thuật, Lê Thị Lựu được dạy vẽ tranh lụa theo phong cách cổ truyền Trung Quốc, tuy nhiên, cách vẽ này lại có nhược điểm bị giới hạn trong sự đơn sắc, vì lụa rất mỏng, sự phân bố màu sắc khó khăn, nên tranh của các họa sĩ tranh lụa thường có từng mảng đồng màu hoặc vài mảng màu tô đậm nhạt khác nhau. Đến sau này, họa sĩ Vũ Cao Đàm mới trở thành người tiên phong trong việc tìm ra một cách vẽ mới cho tranh lụa có thể khắc phục những khuyết điểm cũ của lối vẽ theo Trung Quốc. Theo đó, thay vì căng lụa vẽ màu nước xong mới bồi lên bìa cứng, ông bồi lụa lên trước khi vẽ; điều này sẽ giúp họa sĩ có thể vẽ trên lụa và dùng nhiều màu.

Sau khi trở lại hội họa và chuyên tâm theo đuổi tranh lụa, Lê Thị Lựu cũng làm theo kỹ thuật này của Cao Đàm. Thế nhưng, các họa phẩm bà vẽ lại hoàn toàn khác với các họa sĩ tranh lụa khi đó như Vũ Cao Đàm, Nguyễn Phan Chánh: tranh lụa của bà thiên về cách tiếp cận phương Tây, giàu màu sắc và nhiều lớp lụa đắp dày; bà tìm tòi để kết hợp giữa nghệ thuật vẽ lụa với kỹ thuật ấn tượng nhằm tạo ra một phong cách vẽ tranh lụa mới của riêng mình, để vừa có nét mềm mại, lại tự nhiên đậm tính nữ. Cũng vì cách vẽ này mà màu tranh của bà có người nhầm sang màu phấn.

Những cột mốc quan trọng trong sự nghiệp 

1927 – 1940: Khởi đầu hội họa và sang Pháp

Năm 1929, khi Lê Thị Lựu còn đang học tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, hai tác phẩm của bà (trong đó có bức “Chân dung ông hai” được bà vẽ vội còn chưa kịp khô màu) để nộp cho trường làm triển lãm, bất ngờ chỉ sau vài phút thuyết trình đã có hai người mua với giá tổng là 400 đồng, gấp nhiều lần tiền thuê trọ của bà vỏn vẹn 3 đồng. Hai bức họa này nhận về sự khen ngợi từ thầy giáo bà Joseph Inguimberty và hiệu trưởng Victor Tardieu; thậm chí, “Chân dung Ông Hai” còn vô tình được thầy Inguimberty xếp ngang hàng tranh bậc đàn anh của bà thời điểm đó là họa sĩ Tô Ngọc Vân

Năm 1931, bà cùng các họa sĩ khác trong trường, dẫn đầu là Lê Phổ, tham dự Triển lãm thuộc địa tổ chức tại Paris. Các tác phẩm của nữ họa sĩ thành công gây ấn tượng với những nhà phê bình nghệ thuật người Pháp.

 Sau khi ra trường, tên tuổi Lê Thị Lựu nổi danh khắp ba kỳ, được nhiều tờ báo trong nước nhắc đến như là nữ sinh đầu tiên tốt nghiệp thủ khoa khóa III Cao đẳng Mỹ thuật. Tài năng của bà lúc này cũng sớm được nhóm Tự Lực văn đoàn phát hiện và công nhận. Trong bài “Trường Mỹ thuật Đông Pháp” do Nguyễn Tường Tam (bút danh Nhất Linh) viết, ông đã coi Lê Thị Lựu là một trong ba họa sĩ tài năng nhất về sơn dầu của trường Mỹ thuật Đông Dương, cùng với Lê Phổ và Nam Sơn. 

Từ năm 1933 đến 1935, theo quy chế đương thời, Lê Thị Lựu được bổ nhiệm làm giáo sư lần lượt ở các trường Trung học Bảo hộ (sau là trường Bưởi), trường Nữ sinh Đồng Khánh và trường tư thục Hồng Bàng Hà Nội. Với tư cách là hướng đạo sinh, bà cũng tham dự Trại họp bạn Hướng đạo toàn quốc tại Sân vận động Mayer, Sài Gòn. Bà đã kết hợp sử dụng năm thứ ngũ cốc để tạo thành chân dung ông Robert Baden-Powell, đồng thời tham gia thiết kế mẫu huy hiệu “Hướng đạo Việt Nam”, với biểu trưng cách điệu từ hoa sen và được dùng làm một trong những huy hiệu chính thức của tổ chức cùng tên.

 Năm 1933 hoặc 1934, bà cùng nữ giáo sư trung học Chenevier lập nên tổ chức “Bầy sói con Trứng Rồng”, truyền đạt cho những thanh thiếu niên tham gia có tư tưởng tiến bộ, thích nghi với mọi hoàn cảnh của đời sống.

Giai đoạn 1935-1936, Lê Thị Lựu chuyển vào Nam, dạy cho trường Nữ sinh Áo tím Sài Gòn (nay là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai) và trường Mỹ nghệ và Trang trí Gia Định. Ngoài công việc chính, bà còn cộng tác với các ấn phẩm của Tự Lực văn đoàn như Ngày Nay, Phụ nữ tân văn, Đàn bà Mới, dùng bút hiệu Văn Đỏ dưới ký họa hay hình họa; rồi làm thơ, dù rất ít, bằng bút danh Thạch Ẩn do một nhà sư đặt cho. 

Những năm 1937 hoặc 1938 – 1939, nữ họa sĩ trở ra Hà Nội dạy trường Trung học Bảo hộ và Đăng Ten. Năm 1939, cùng với Tô Ngọc Vân, Lê Thị Lựu tham gia vào “Nhóm kịch Thế Lữ” với vai trò trang trí các vở diễn gây được tiếng vang cho công chúng. Thời gian này, ba người bạn của bà là Mai Thứ, Lê Phổ và Cao Đàm đều đã qua định cư tại Pháp, trong bối cảnh giới họa sĩ lúc bấy giờ muốn tới Pháp để tiếp xúc trường phái Paris; bà cũng không nằm ngoại lệ.

Đến tháng 3 năm 1940, bà cùng chồng là ông Ngô Thế Tân xuất ngoại sang Pháp.

1940 – 1960: Tham gia hoạt động cách mạng và trở lại với hội họa

Tháng 4.1940, vào tháng 6 cùng năm, Lê Thị Lựu và chồng di chuyển lên Paris. Tuy nhiên khi tới nơi lại đúng lúc thành phố đang bị Đức ném bom. Hai người lên kế hoạch đi thăm xưởng vẽ ở Paris của ba người bạn họa sĩ Vũ Cao Đàm, Lê Phổ và Mai Trung Thứ, nhưng vừa đến thì biết tin cả ba phải đi nhập ngũ. 

Sau một thời gian về Nantes rồi quay lại Paris, sống trong điều kiện thiếu thốn và khó khăn, đến tháng 6.1941, khi này bà đã sinh con, cả gia đình bà xuống Marseille để đón tàu về nước nhưng không may hết tàu do trong tình trạng thời chiến. Vì vậy, bà cùng chồng di chuyển về Nice ở chung với Lê Phổ, lúc đó đã giải ngũ, rồi trú khu trọ Pension des Etats Unis do Cao Văn Bổn quản lý một năm tròn, trước khi ông Tân nhậm chức làm giám đốc Vườn Thử Nghiệm Thực Vật Kindia (Jardin d’Essai de Kindia), thị trấn Kindia, nước Guinée châu Phi. 

Trong suốt thời gian từ khi sang Pháp đến tại Guinée, bà gần như không động đến hội họa vì bận chăm con và thiếu thốn dụng cụ, nhưng có vẽ mươi hình cô gái đồng trinh bản xứ, do tòa sứ Pháp đặt để trang trí phòng khách ở Kindia. Nữ họa sĩ cũng nhiều lần được giám đốc trường thủ công nghệ tại thị trấn mời làm giáo sư nhưng đều bị bà từ chối. Vào năm 1943, Lê Thị Lựu đã cho ra đời bức Chân dung người Guinée, trong đó bà vẽ bằng bút chì trên giấy kraft dùng để gói hàng.

Từ năm 1954, sau Hiệp định Genève, Lê Thị Lựu bắt đầu trở lại với hội họa. Thời điểm này, nhờ sự tiếp đón tận tình của Ngô Thế Tân, khi đó vẫn đang là Phó Chủ tịch Hội người Việt ở Pháp, với phái đoàn Thương mại miền Bắc Việt Nam, ông đã được đề bạt lên làm cho Bộ Ngoại thương và đến năm 1956 thì nhận công tác về Việt Nam. Sau khi chồng đi làm xa, Lê Thị Lựu quyết tâm bỏ hẳn việc buôn bán, hoạt động hội họa tích cực.

Tác phẩm “Thiếu nữ và cây đàn thập lục”
Nguồn: Thuykhue.free.fr

Để làm quen với môi trường mỹ thuật, ngày ngày bà đều tham quan bảo tàng, phòng triển lãm cộng đồng, cá nhân và các cửa hiệu bán tranh trong thành phố. Trong quãng thời gian trên, Lê Thị Lựu lại trở nên do dự trước vô số các trường phái và khuynh hướng mới ra đời nhưng xa vời với lối vẽ cùng quan niệm của bà. Sau khi suy nghĩ kĩ, bà quyết định đi theo con đường sáng tạo dựa trên những quan niệm hội họa do chính bà đặt ra và cuối cùng hoàn toàn theo đuổi nghệ thuật tranh lụa.

Khởi đầu cho việc trở lại làm họa sĩ, năm 1957, Lê Thị Lựu thường xuyên đem tranh đến phòng trưng bày Chapelin cạnh Điện Elysée. Năm 1959, ba bức lụa nhỏ bà sáng tác đều cùng được trưng bày ở trung tâm phòng triển lãm hàng năm Hội liên hiệp phụ nữ hội họa và điêu khắc (Union des femmes peintres et sculpteurs). Chỉ ngay trong buổi khai mạc, có hai người Mỹ đã mua hai bức tranh của bà, tranh còn lại thì do bà chủ phòng tranh Chapelin nhận. Cả ba tác phẩm trên sau đó đem về cho Lê Thị Lựu giải nhất trong các tranh và bà được phong làm thành viên thực thụ (Sociétaire) của hội, đồng nghĩa với việc tranh của bà khi trưng bày đều không bao giờ cần phải qua sự giám sát.

1960 – 1988: Thời kỳ tranh lụa “toàn bích”, những tác phẩm cuối cùng

Sau một thời gian thể nghiệm và theo đuổi nghệ thuật tranh lụa, từ năm 1960, Lê Thị Lựu đã kiện toàn phong cách tranh lụa của riêng mình và cho ra đời nhiều tác phẩm được đánh giá là “toàn bích”. Trong giai đoạn này, bức vẽ thành công nhất của Lê Thị Lựu là “Mẹ địu con” khoảng 1970 – 1975, từng được in thành nhiều phiên bản cho cơ quan từ thiện bán lấy tiền.

Năm 1962, Lê Thị Lựu trở thành giáo sư hội họa trường Lycée Corot; một năm sau đó vào 1963, bà tiếp tục làm giáo sư tại hai trường Lycée Rodin Paris và Lycée d’Orsay vùng ngoại ô Paris. Ngày 4.12.1963, Lê Thị Lựu đã tham gia vào buổi triển lãm tranh với những họa sĩ khác ở trung tâm Foyer des Artistes trên đại lộ Montparnasse

Trong những năm cuối đời, bà đã hoàn thành nhiều tác phẩm lớn và ghi dấu ấn trong sự nghiệp của mình. Bức “Kim Kiều gặp gỡ” là tác phẩm mà bà vẽ trong thời gian lâu nhất, bắt đầu từ năm 1975 nhưng sang đến thập niên 1980 chưa xong, thỉnh thoảng chỉnh sửa lại nhưng vẫn không ưng ý. Họa phẩm cùng chủ đề “Kiều gảy đàn tỳ bà” mà nữ họa sĩ sáng tác vào khoảng 1987, cũng được coi là nổi trội giai đoạn này. Tác phẩm cuối cùng của Lê Thị Lựu trước khi qua đời là bức “Tam đại đồng đường”, hoàn thành vào năm 1988.

Bức “Kim Kiều gặp gỡ”

Thành tựu và những đóng góp quan trọng

Lê Thị Lựu được xem là nữ hoạ sĩ hiện đại đầu tiên của mỹ thuật Việt Nam. Cùng với Mai Trung Thứ, Lê Phổ và Vũ Cao Đàm, Lựu cũng nằm trong bộ tứ họa sĩ Việt tại Pháp gồm Phổ – Thứ – Lựu – Đàm. Bà và ba người bạn này được coi là “nhân chứng của ngôi trường đầy sức mạnh và đầy chuyển biến”. Riêng Lê Thị Lựu thì được ghi nhận khi bà “vừa là đại diện cho phụ nữ, vừa là đại diện tiêu biểu cho cả nền hội họa hiện đại Việt Nam” và là “minh chứng cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện đại trong hội họa Việt”. Theo tuần báo La Gazette Drouot, ngoài là một nhà nữ quyền, Lê Thị Lựu còn là nhân vật quan trọng trong lịch sử của nghệ sĩ Trường Mỹ thuật Đông Dương, “để lại cho hậu thế một minh chứng về con mắt tinh tường và đặc biệt trìu mến”.

Theo đánh giá từ các nhà phê bình chuyên môn, Lê Thị Lựu là họa sĩ hiếm hoi của nước nhà khi “lột tả được hai sắc thái đối lập trong tranh, vừa có sự nhẹ nhàng, mềm mại, lại vừa dữ dội, bạo liệt”. Các bức sơn dầu của nữ họa sĩ từng được hiệu trưởng Tardieu so sánh là giống với Paul Cézanne. Trong cuốn sách “Hội họa Việt Nam – Một diện mạo khác” xuất bản năm 2015, nhà nghiên cứu văn hóa Phan Cẩm Thượng ghi nhận Lê Thị Lựu và ba người bạn họa sĩ của bà đã hình thành nên trường phái hội họa Pháp-Việt ở Paris, nhận xét tranh nữ danh họa có chất lượng kỹ thuật tốt, mang tính phản ánh xã hội đương thời và “vẻ bình dị mà vẫn phức tạp đa chiều”. 

Tranh của Lê Thị Lựu cũng đã được các bảo tàng, các nhà sưu tập tranh trên thế giới quan tâm, thường có mặt trong nhiều cuộc triển lãm, bán đấu giá… và được mua với giá rất cao.

Vào những năm 1970, bức “Cô gái bên bờ suối” bà vẽ 1973 được một thương nhân mua trực tiếp và lưu trữ tại bộ sưu tập tư nhân, sau này đem đi bán đấu giá vào năm 2019 tại Pháp với giá 57.000 EUR (60.549 USD theo tỷ giá 2022) (khoảng 1.422.447.383 VND).

Từ năm 1987, tức trước khi bà qua đời một năm, có một nhà môi giới nghệ thuật ở Anh đã tìm gặp Lê Thị Lựu để chọn mua họa phẩm cho bảo tàng tại Luân Đôn; một bức tranh của nữ họa sĩ sau đó được trả 40 ngàn bảng Anh (khoảng 1.163.632.000 VND).

Vào năm 2012, bảo tàng Cernuschi tại Paris đã tổ chức một buổi triển lãm kéo dài từ ngày 21.9.2013 đến 27.1.2013, chủ đề “Du fleuve Rouge au Mékong, visions du Vietnam” (tạm dịch: Từ sông Hồng đến sông Mekong, tầm nhìn Việt Nam), giới thiệu tác phẩm tranh từ nhiều họa sĩ nổi tiếng người Việt, trong đó có những họa phẩm giá trị của Lê Thị Lựu. Các bức họa bà vẽ cũng xuất hiện trong một cuộc triển lãm tổ chức tại De Sarthe Gallery Hong Kong vào tháng 7 năm 2017, đi cùng với loạt tác phẩm chính của họa sĩ người Mỹ gốc Việt Richard Streitmatter-Tran.

Sau khi qua đời, tranh của bà thường xuyên có mặt trong các phiên đấu giá nhà Christie’s, Sotheby’s,… và giá ngày càng tăng theo thời gian. Trong phiên “Nghệ thuật Đông Nam Á hiện đại và đương đại” của Sotheby’s Hong Kong, diễn ra vào ngày 1.4.2018, bức “Trẻ em nghịch hoa” của Lê Thị Lựu đã được bán với số tiền 207.821 USD (khoảng 6.045.679.147 VND).

 Năm 2019, 11 tác phẩm của bà góp mặt trong buổi bán “Nghệ thuật đương đại & thế kỷ 20” của Christie’s Hong Kong, bên cạnh Lê Phổ, Mai Trung Thứ và Vũ Cao Đàm, với giá dao động từ 56.250 – 2,5 triệu HKD (khoảng 7.225 – 321.135 USD theo tỷ giá 2022) (khoảng 210.181.030 – 9.342.074.058 VND). Đến năm 2021, bức “Ba mẹ con trên cỏ” của Lê Thị Lựu tiếp tục được bán đấu giá 6,83 triệu HKD (878.000 USD theo tỷ giá 2021) (khoảng 25.541.722.400 VND), cũng tại một phiên bán khác của Sotheby’s.

“Mẹ và con”, khoảng thập niên 1960, mực và gouache trên lụa, 63cm x 49cm

Ngày 21.4.2022, thông qua phiên đấu giá online trên Sotheby’s, tác phẩm “Mẹ và con” đã đấu giá thành công 573.925 USD (khoảng 16.695.937.390 VND), là mức giá cao nhất trong phiên bán “Indochine” gồm 49 tranh hiện đại, tạp chí cũ của các họa sĩ, giáo viên tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

Tổng hợp và biên tập: May

Nguồn: Viet Art Station, Wikipedia, Design.vn

Cùng tác giả

#Tag

hội họa Việt Nam Lê Thị Lựu may Series Chúng ta và Mỹ Thuật Việt Nam Tứ Kiệt Đông Dương

iDesign Must-try

Sans-Phố Typeface: Dự án thiết kế mặt chữ lấy cảm hứng từ các bảng hiệu thủ công trên khắp đường phố Việt Nam
Sans-Phố Typeface: Dự án thiết kế mặt chữ lấy cảm hứng từ các bảng hiệu thủ công trên khắp đường phố Việt Nam
Sự náo nhiệt, hối hả và phần nhìn vô cùng đặc trưng của đường phố Việt Nam luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những nhà sáng tạo Việt.…
Giải thưởng và Cuộc thi Thiết kế A’ 2024: Lời kêu gọi cuối cùng cho việc nộp hồ sơ
Giải thưởng và Cuộc thi Thiết kế A’ 2024: Lời kêu gọi cuối cùng cho việc nộp hồ sơ
A’ Design Award & Competition – Giải thưởng và Cuộc thi Thiết kế A’ theo đuổi mục tiêu vinh danh các công trình thiết kế xuất sắc đã được đề…
New York School và thiết kế đồ hoạ Mĩ giữa thế kỉ 20 (Phần 1)
New York School và thiết kế đồ hoạ Mĩ giữa thế kỉ 20 (Phần 1)
Làn sóng đầu tiên của thiết kế Hiện đại ở Mĩ là do những người nhập cư châu Âu tài năng tìm kiếm trốn thoát chủ nghĩa toàn trị chính…
Những mảng xanh trùng điệp yên bình của vùng đất nông nghiệp Palouse 
Những mảng xanh trùng điệp yên bình của vùng đất nông nghiệp Palouse 
Những ngọn đồi thoai thoải ở vùng Palouse miền bắc Hoa Kỳ với đất đai màu mỡ là kết quả của hoạt động núi lửa cổ xưa và xói mòn…
/Ta biết gì về loạt tranh tự họa của các nghệ sĩ?/ - Frida Kahlo
/Ta biết gì về loạt tranh tự họa của các nghệ sĩ?/ - Frida Kahlo
Series /Ta biết gì về loạt tranh tự họa của các nghệ sĩ?/ là loạt bài giới thiệu và phân tích về chùm tranh tự họa của các họa sĩ…
/Ta biết gì về loạt tranh tự họa của các nghệ sĩ?/ - Picasso
/Ta biết gì về loạt tranh tự họa của các nghệ sĩ?/ - Picasso
Series /Ta biết gì về loạt tranh tự họa của các nghệ sĩ?/ là loạt bài giới thiệu và phân tích về chùm tranh tự họa của các họa sĩ…