Bunraku - nghệ thuật kịch rối truyền thống Nhật Bản

Bunraku là gì?

Bunraku là một trong những nghệ thuật sân khấu truyền thống của Nhật Bản, được ghi vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại được UNESCO công nhận vào năm 2003. Đây là một hình thức hợp tác chặt chẽ, kết hợp đồng bộ giữa ngâm thơ tường thuật, âm nhạc shamisen và múa rối trong biểu diễn. Người kể chuyện kể lại câu chuyện bằng tất cả sức lực của mình, âm thanh sống động và tinh tế của đàn shamisen và chuyển động đẹp mắt của những con rối khiến khán giả kinh ngạc. Mang phong cách độc đáo nổi bật, Bunraku được ca tụng là nghệ thuật sân khấu múa rối tinh vi bậc nhất thế giới.

Thuật ngữ chính xác và nguyên thủy nhất cho kịch rối truyền thống Nhật Bản là Ningyo joruri (人形浄瑠璃) Đây là sự kết hợp của nghệ thuật lĩnh xướng và kịch nghệ gọi là joruri và con rối hay búp bê gọi là Ningyo trong tiếng Nhật.

Tên gọi thay thế và nổi tiếng hơn của Ningyo joruriBunraku 文(ぶん)楽(らく). Tên gọi này xuất phát từ một nhà hát Bunraku chuyên nghiệp thương mại ở Osaka duy nhất còn tồn tại từ khi thành lập vào năm 1872 đến nay. Danh xưng Bunraku nổi tiếng đến mức nhiều người Nhật Bản và thế giới đã dùng cụm từ này để chỉ chung mọi loại hình kịch rối truyền thống ở xứ Phù Tang. 

Lược sử Bunraku – nghệ thuật kịch rối truyền thống Nhật Bản

Nghệ thuật kịch rối Nhật Bản là sự kết hợp giữa người kể chuyện Tayu, múa rối Ningyo và âm nhạc Shamisen khởi phát vào cuối thế kỷ 16 và phát triển chủ yếu vào thế kỷ 17 và 18, là một bốn hình thức sân khấu cổ điển Nhật Bản bên cạnh Kabuki, Noh và Kyogen. Song song với Kabuki, Bunraku phát triển như một phần của nền văn hóa thương nhân sôi động của thời kỳ Edo (1603 – 1868). Tuy vậy những yếu tố cấu thành Bunraku lại xuất hiện từ rất sớm từ thời Heian (794 – 1185), nhưng lại hoạt động một cách độc lập và riêng lẻ.

Theo Tiến sĩ Jukka O. Miettinen của Học viện Sân khấu Helsinki múa rối có lịch sử lâu đời ở Nhật Bản. Bắt nguồn từ các nghi thức cổ xưa, trong đó các con rối đóng vai trò đại diện cho những người đã khuất. Khi mối liên hệ với Trung Quốc được thiết lập vào thế kỷ thứ 7, múa rối cũng được chấp nhận bên cạnh các yếu tố văn hóa khác. Bằng chứng là các văn bản tồn tại từ thời Heian (794 – 1185) đã đề cập đến các nhóm người múa rối lưu động. Những người múa rối này được gọi là kugutsumawashi vận hành những con rối đơn giản bởi một người đã đi khắp Nhật Bản để trình diễn. Hình thức giải trí đường phố này tiếp tục phát triển qua thời kỳ Edo (1603 – 1868) .

Múa rối lưu động

Tương tự, nghệ thuật lĩnh xướng Joruri, một hình thức kể chuyện trong đó Tayu là người kể chuyện tường thuật những câu chuyện về các trận chiến nổi tiếng trong thời kỳ phong kiến Nhật Bản. Tiền thân của joruri có thể được tìm thấy trong những người biểu diễn mù vào khoảng thế kỷ 13, được gọi là biwa hoshi, người đã tụng kinh The Tale of the Heike, một sử thi quân sự mô tả chiến tranh Taira-Minamoto với nhạc cụ là đàn biwa.  

Biwa hoshi

Yếu tố cấu thành cuối cùng tham gia hoàn thiện mảnh ghép cho loại hình nghệ thuật mới ở thế kỷ 16 là những nhạc công Shamisen. Shamisen là một nhạc cụ gảy của Trung Quốc thịnh hành nhất dưới thời kỳ Edo dần thay thế đàn biwa, trở thành nhạc cụ chính của nghệ thuật lĩnh xướng joruri

Nghệ thuật múa rối kết hợp với tụng kinh và đệm đàn shamisen đã trở nên phổ biến vào đầu thế kỷ 17 ở Edo (nay là Tokyo), nơi nó nhận được sự bảo trợ của các shogun (mạc chủ) và các nhà lãnh đạo quân sự khác. 

Giai đoạn hoàng kim đạt sự phát triển đỉnh cao của Bunraku vào giữa thế kỷ 18. Loại hình này thu hút và đáp ứng nhu cầu giải trí của hầu hết các tầng lớp trong xã hội Nhật Bản đương thời. Sự hấp dẫn của nội dung chính là điểm mạnh của Bunraku, không chỉ là những vở kịch lịch sử hào nhoáng, oai hùng, Bunraku còn mở rộng hơn ở các chủ đề hấp dẫn, kịch tính mà gần gũi với đời sống thường nhật. Sự mở rộng phạm vi trình diễn gần như trên toàn lãnh thổ Nhật Bản, tiếp cận hơn với nhiếu đối tượng khán giả cũng khiến Bunraku nổi danh hơn bao giờ hết. Đi kèm đó là sự cạnh tranh của những đoàn kịch nghệ tại thời điểm đó là Takemoto – za lẫy lững và Tokyotaka – za tươi mới trong giới kịch rối đương thời.

Sự suy giảm mức độ phổ biến của Bunraku bắt đầu từ đầu thời kỳ Meiji (1868 – 1912), khi các hình thức giải trí được Tây hóa trở thành trào lưu. Tuy nhiên may mắn thay, sự tiếp nối của truyền thống được đảm bảo bởi một nghệ nhân nhiệt huyết là Masai Kahei (1737–1810), với nghệ danh là Ueamura Bunrakuken. Ông thành lập nhà hát múa rối của riêng mình ở Osaka vào năm 1782. Từ đây Osaka trở thành quê hương mới, là nơi tái sinh nghệ thuật kịch rối truyền thống Nhật Bản dưới một tên gọi khác là Bunraku. Ngày nay, nhà hát Bunraku-za hoặc Bunraku của Osaka vẫn là trung tâm của loại hình nghệ thuật, mặc dù các buổi biểu diễn cũng có thể được xem tại Nhà hát Quốc gia Tokyo.

Bunraku là loại hình giải trí bình dân đã từng rất nổi tiếng và được yêu thích bởi mọi người ở nhiều tầng lớp và địa vị khác nhau trong xã hội Nhật Bản. Nhưng ngày nay lượng khán giả của Bunraku đang giảm dần và nhiều người liên tưởng nó với hình thức giải trí bác học, một nghệ thuật sân khấu cổ điển khó tiếp cận.

Chủ đề và các vở kịch nổi tiếng

Mặc dù sử dụng các con rối ningyo, nhưng Bunraku lại không dành cho trẻ em bởi những nội dung kịch tính và tăm tối. Các vở kịch Bunraku nổi tiếng nhất được viết vào thế kỷ 18 và dựa trên lịch sử, văn học, các sự kiện hiện tại, cuộc sống hoặc những người bình thường tại thời điểm chúng được viết. Các vở kịch rối cổ điển được phát triển bởi nhà biên kịch nổi tiếng Talemoto Gidayu (1651-1714) và nhà viết kịch Chikamatsu Monzaemon (1654 – 1724), người cũng viết kịch kabuki.

Chikamatsu Monzaemon (1654 – 1724)

Các câu chuyện được lấy từ các tập truyện mô tả các cuộc chiến đẫm máu trong thời kỳ phong kiến ​​của Nhật Bản hoặc số phận của những người dân thị trấn trong thời kỳ Edo. Các vở kịch là những bi kịch đau lòng, đại diện cho nền văn học kịch tính của Nhật Bản.

Cũng tập trung vào các chủ đề như Kakuki, Bunraku sử dụng các vở kịch nổi tiếng Jidai – mono nói về đề tài lịch sử, anh hùng ở thời Edo (1603 – 1868). Những vở kịch thuộc chủ đề này luôn chiếm tỷ lệ chủ yếu trong toàn bộ nghệ thuật kịch múa nói chung của Nhật Bản. Tuy nhiên điểm đặc sắc và hấp dẫn nhất của Bunraku lại đến từ các vở kịch Sewa – mono.

Thoát ly khỏi những vở kịch Jidai – mono với 5 hồi nặng nề và xa xôi của lịch sử, của những anh hùng đã dần xa lạ, thay vào đó là những câu chuyện gần gũi đời thường nhưng không kém phần hấp dẫn của Sewa – mono.

Người có công lớn mở ra lối đi riêng cho Bunraku thay vì trở thành một cái bóng phía sau Kabuki là nhà biên kịch vĩ đại nhất Nhật Bản, Chikamatsu Monzaemon. Xuất phát điểm là người xây dựng, sáng tạo nên nội dung của các vở kịch cho Kakuki, Chikamatsu Monzaemon tìm đến với Bunraku để kể những câu chuyện gần gũi và đời thường hơn nhiều, về những số phận người có thể bắt gặp dễ dàng trong xã hội Edo đương đại. Trong suốt sự nghiệp của mình ông đã sáng tác hơn 100 tác phẩm và được xưng tụng là Shakespeare của Nhật Bản. “Sonezaki Shinju” của Chikamatsu Monzaemon là vở kịch tiêu biểu cho nghệ thuật Bunraku.

Ngoài ra, dù được cấu thành bởi sự kết hợp âm nhạc, kể chuyện và múa rối Bunraku vẫn có một loại chủ đề khác được trình diễn là Keigoto/ Keiji. Với loại hình này, yếu tố kể chuyện gần như biến mất, chủ yếu tập trung vào âm nhạc và những điệu múa, những nghi thức thờ cúng. Keigoto/Keiji dành cho các dịp đặc biệt như tế lễ, mừng năm mới,…

Một trong những vở kịch nổi tiếng nhất Kanadehon Chushingura” (1748) của Chikamatsu Monzaemon là một câu chuyện dài 10 giờ với 10 màn và phần mở đầu. Dựa trên một sự kiện có thật xảy ra vào năm 1702, kể về 47 samurai đã trả thù cho cái chết của chúa tể của họ và sau đó tự sát. Cũng một vở kịch khác của Chikamatsu Monzaemon“Sonzezaki Shinju”, nói về vụ tự sát vì tình của cặp đôi yêu nhau tha thiết nhưng không đến được với nhau dựa trên một câu chuyện có thật ở Sonezaki.

Kanadehon Chushingura” (1748)

Imoseyama Onna Teiken của Chikamatsu Hanji đôi khi được coi là Romeo và Juliet của Nhật Bản mặc dù sự hòa giải cho hai gia đình thù địch thông qua cái chết của một cặp vợ chồng trẻ chỉ là một phần của câu chuyện đầy lừa dối và ghen tị. Hành động trung tâm của câu chuyện là người mẹ chính tay kết liễu con gái và đâm chết một người phụ nữ ghen tuông bằng một cây sáo thần, làm máu của cô có thể trộn với máu của một con hươu để phá vỡ câu thần chú bảo vệ tên thủ lĩnh độc ác đang kiểm soát Nhật Bản rồi tự tử.

Imoseyama Onna Teiken

Ehon Taikoo (1799) của Chikamatsu Yanagi được coi là tác phẩm Bunraku vĩ đại cuối cùng. Mặc dù tiêu đề, có nghĩa là biên niên sử của Taiko gợi ý rằng vở kịch nói về Toyotomi Hideyoshi, được biết đến với cái tên Taiko, nhưng Akechi Mitsuhide, vị tướng bất ngờ chống lại thủ lĩnh tàn bạo Oda Nobunaga lại được nhắc đến nhiều hơn. Trong một cảnh bi thảm, Akechi (được biết đến với cái tên Takechi trong vở kịch) đã giết mẹ mình bằng một ngọn giáo tre tự chế vì nghĩ rằng bà là Hideyoshi cải trang (Hisayoshi trong vở kịch) ngay trước khi con trai của Akechi xuất hiện. Những vở kịch nổi tiếng khác bao gồm “Shinju Ten ni Amijima” (Tự tử vì tình yêu ở Amijima) và Yoshitsune Sembon Zakura (“Yoshitsune và những cây anh đào ngàn thu”). 

Có thể thấy chủ đề trọng tâm và nổi bật nhất của Bunraku luôn xoay quanh những vụ tự sát đặc biệt là vì tình yêu. Chính sự kịch tính, éo le của những tình huống đẩy lên cao trào ở mức tối đa đã khiến cho Bunraku luôn giữ được sức thu hút và lôi kéo sự tò mò hay gợi lên niềm thương xót vô tận của khán giả Nhật Bản đương thời.

Con rối

Con rối là điểm đặc sắc và thú vị của nghệ thuật sân khấu Bunraku. Bắt đầu từ hình dáng khá nhỏ và đơn giản, qua chặng đường phát triển, con rối đã trở nên tinh xảo, cầu kỳ, phức tạp và có kích thước khá lớn. Chiều cao trung bình của một rối Bunraku rơi vào khoảng 130 đến 150m được chế tác thủ công chủ yếu từ loại gỗ có tên gọi là hinoki. Mỗi con rối có một khung chung, đối với một buổi biểu diễn, các đầu và trang phục khác nhau được gắn vào để tạo ra một nhân vật nặng tới 10 kg. Một con rối Bunraku điển hình có hai bộ phận quan trọng chính là phần khung rối có cơ chế hoạt động tinh vi và phần đầu rối được tạo tác tinh tế với đủ giới tính, biểu cảm nét mặt khác nhau.

Là kết quả của một quá trình tiến hóa lâu dài, những con rối bunraku ban đầu khá đơn giản và có kích thước nhỏ, xấp xỉ một nửa kích thước hiện tại của chúng. 

Tiến sĩ Jukka O. Miettinen của Học viện Sân khấu Helsinki

Cấu tạo của khung rối đặc biệt phức tạp và tinh vi đảm bảo cho sự chuyển động linh hoạt ở từng chi tiết nhỏ nhất như ngón tay. Các con rối có thể điều khiển các đạo cụ khác nhau, chẳng hạn như kiếm, quạt,…Con rối không có cánh tay hay chân hoàn chỉnh, chỉ có một sợi dây gắn các bàn tay gỗ, cẳng tay và cẳng chân vào bảng vai và khung dưới. Việc điều khiển các con rối thông qua các thanh gỗ sashigane (cho phần tay) và ashigane (cho phần chân) gắn với cẳng tay và cẳng chân. Hông của con rối kết nối phía trên và phía dưới, có dạng một chiếc vòng tre được gắn vào các mảnh vải. 

Cấu tạo của con rối
Cận cảnh thanh điều khiển rối

Có một số điểm khác biệt trong cấu trúc của con rối nam và nữ. Do lợi thế phục trang cầu kỳ và hoành tráng của nữ nên những con rối nữ thường không cần thiết có phần chân, chỉ những con rối nam mới có chân. Ấn tượng về chuyển động của đôi chân được tạo ra bằng cách điều khiển những chiếc áo kimono. Ngoài ra, con rối nam có phần ngón tay có thể cử động, linh hoạt hơn rất nhiều so với rối nữ chỉ có thể hoạt động cùng lúc 4 ngón.

Phần nổi trội nhất của một con rối luôn là phần đầu kashira. Kích thước của đầu cũng là một phần trong hệ thống phân loại cấp bậc, một lãnh chúa quyền lực có cái đầu lớn hơn một dân làng khiêm tốn. Cách tạo hình các nét trên khuôn mặt gợi nhớ đến những bức tranh biếm họa khéo léo. Các đầu rối được gắn vào một thanh mà những người múa rối chính vận hành chúng. Trong trường hợp để một con rối có thể cử động được các bộ phận trên khuôn mặt như mắt, mũi, miệng,…các dây được thêm vào thanh để có thể điều khiển các đặc điểm trên khuôn mặt có thể di chuyển được.

Số lượng đầu rối được sử dụng là rất lớn, tính đến nay đã có hơn 300 hình dáng đầu được chế tác để mô tả những loại hình nhân vật khác nhau về giới tính, tính cách, công việc, địa vị xã hội,…Mỗi nhân vật rối cũng có khoảng 40 loại dáng đầu được chạm khắc tinh xảo để miêu tả rõ nét các biểu cảm phong phú trên gương mặt hay sự thay đổi khuôn mặt theo thời gian. Màu da cũng thay đổi tùy theo nhân vật từ nâu đến trắng tinh, đại diện cho loại hình nhân vật cụ thể.

Chế tác đầu rối

Trang phục của con rối Bunraku là những phục trang truyền thống hết sức công phu và tỉ mỉ, thấm đẫm dấu ấn văn hóa Nhật Bản. Trước mỗi buổi biểu diễn, chỉ có người điều khiển rối, Omo – zukai, mới được phép chuẩn bị và trang hoàng cho con rối. Đây là nghi thức đặc biệt trong Bunraku, được gọi tên là Ningyo koshirae.

Tư thế và chuyển động đặc trưng cho con rối

Thay vì sao chép các chuyển động của con người, một loạt các tư thế đặc biệt đã được phát triển mà chỉ những con rối mới có thể thực hiện được và đặt tầm quan trọng lên tính biểu tượng. Có những tư thế cho vai nam (tachiyaku) và vai nữ (onnagata).

Các tư thế của các vai nam thường được đặc trưng bởi các chuyển động kịch tính nhấn mạnh sức mạnh và quyền lực. Ví dụ, danshichi- bashiri là những chuyển động trong đó con rối nam chạy những bước dài trong khi vung cánh tay của mình theo chuyển động lớn. Tư thế này làm nổi bật tính cách táo bạo và năng động.

Mặt khác, các nhân vật nữ thực hiện những chuyển động tinh tế để thể hiện vẻ đẹp và lòng tốt. Ví dụ, tư thế ushiro-buri được sử dụng trong những cảnh nhân vật nữ phải kìm nén cảm xúc buồn bã của mình. Quay lưng lại với khán giả, cho thấy sự phẫn uất và đau buồn đạt đến đỉnh điểm, theo cách đẹp nhất.

Những người trình diễn

Một buỗi trình diễn Bunraku là sự đồng bộ hoàn hảo của ba bộ phận: người kể chuyện/ lĩnh xướng Tayu, người điều khiển rối và nhạc công Samishen.

Người kể chuyện/ lĩnh xướng Tayu

Xuyên suốt một buổi trình diễn, người kể chuyện Tayu nắm vai trò chủ đạo, dùng chính giọng nói để truyền tải toàn bộ câu chuyện cũng nhưng phải đóng vai cho toàn bộ các nhân vật. Điểm đặc biệt là liên tục trong buổi trình diễn, Tayu phải độc thoại hoàn hoàn mà không có sự hỗ trợ của các thiết bị âm thanh ngoài nhạc cụ Shamisen.

Không có micro, Tayu phải sử dụng giọng bụng, đảm bảo âm lượng đủ để truyền tải đến tất cả các góc của nhà hát rộng lớn. Âm vực của lối kể chuyện này nghe có vẻ phóng đại, gây ngỡ ngàng ngay lần đầu tiên nghe, nhưng thực chất đó là một kỹ thuật thanh nhạc được trau chuốt kỹ lưỡng để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Người kể chuyện phải mất hàng chục năm đào tạo mới có thể thành thạo kỹ thuật này.

Người chơi nhạc cụ shamisen

Bên cạnh người kể chuyện tập phải trung cao độ vào buổi trình diễn, người chơi nhạc cụ shamisen cũng phải hoàn thành tốt nhiệm vụ hỗ trợ tạo không khí và cảm xúc, đóng vai trò quan trọng như đối tác của người kể chuyện, hỗ trợ và dẫn dắt người kể chuyện. Bằng cách sử dụng nhiều kỹ thuật để gợi lên khung cảnh của bối cảnh hay những biến động cảm xúc của các nhân vật. 

Âm thanh của đàn shamisen gợi lên cảnh vật và những dao động cảm xúc.

Người điều khiển rối

Những người lần đầu xem Bunraku không khỏi ngạc nhiên khi thấy ba người lớn đang di chuyển một con rối nhỏ. Chính sự phức tạp và tinh vi, con rối trong Bunraku cần đến ba người vận hành để đảm bảo được sự chuyển động nhịp nhàng, tính tế và bắt kịp tiết tấu của người kể chuyện Tayu và nhạc công Shamisen. Phương pháp này có vẻ phóng đại, đã được phát minh ra trong quá trình lịch sử lâu dài của Bunraku để những con rối chạm khắc trên gỗ có thể đóng nhiều vai trò khác nhau.

Những con rối Joruri không phải là tác phẩm nghệ thuật, mà là những công cụ sống. Chỉ khi người múa rối xử lý chúng thì chúng mới trở nên sống động.

Yoichiro Amari – bậc thầy sản xuất và phục chế búp bê gỗ

Thực chất ở thời điểm ban đầu, những con rối đơn giản không cần đến sự điều khiển của số lượng người nhiều như hiện tại. Nhưng năm 1734 trong vở kịch Ashiya doman ouchi kagami, đoàn kịch Takemoto – za đã bắt đầu sử dụng 3 người điều khiển, từ đó việc 1 con rối nhưng có tận 3 người điều khiển đã trở thành điểm đặc trưng cho Bunraku.

 Các nghệ sĩ múa rối được chia thành ba cấp bậc, đảm nhận vận hành các bộ phận khác nhau của con rối. Người điều khiến chính là Omo – zukai giữ nhiệm vụ vận hành cho phần quan trọng của con rối là phần đầu kashira và phần cánh tay phải. Hidari – zukai chịu trách nhiệm phần tay trái và ashi – zukai là phần chân rối. Ba người múa rối làm cho con rối di chuyển như thể nó là một người sống, đồng bộ hoàn hảo, sử dụng các tín hiệu để ra hiệu cho nhau mà không cần phải giao tiếp bằng lời nói.

Trang phục khi trình diễn của những người điều khiển rối là Kurogo, loại trang phục có màu đen và được che mặt hoàn toàn nhằm giảm thiểu tối đa sự hiện diện, phục vụ tốt nhất trải nghiệm khi xem của khán giả. Điều này bắt nguồn từ một quy ước trong nghệ thuật biểu diễn truyền thống của Nhật Bản, trong đó màu đen được hiểu là tượng trưng cho sự tàng hình. Tuy nhiên, quy ước này không áp dụng với người múa rối chính là Omo – zukai. Người điều khiển chính mặc trang phục như kimono có màu hoặc hakama với khuôn mặt không che đậy đang ngày càng trở nên phổ biến, Đây được gọi là “de-zukai với nhằm thể hiện sự kính trọng với tài năng xuất sắc của nghệ nhân múa rối.

Người ta nói rằng để trở thành một nghệ sĩ múa rối giỏi, bạn cần bắt đầu luyện tập ở tuổi 15. Người múa rối “học hỏi qua cơ thể” và cần phải linh hoạt. Để trở thành một bậc thầy, bạn cần 10 năm làm nghệ sĩ múa rối chân ashi – zukai, 10 năm nữa cho nghệ sĩ múa rối tay trái hidari – zukai và ít nhất 25 năm để là nghệ sĩ múa rối chính Omo – zukai.

Sân khấu đặc biệt của Bunraku

Quan sát theo góc nhìn trực diện từ khán đài, cấu trúc của một sân khấu khá đơn giản, phía bên phải được gọi là kamite và phía bên trái được gọi là shimote. Một tấm màn nhỏ komaku in gia huy của rạp hát Takemoto-za và Toyotake-za được treo ở cả bên trái và bên phải sân khấu. Các tấm màn nhỏ này là nơi những con rối xuất hiện và biến mất.

Sân khấu góc nhìn trực diện từ khán đài

Tuy nhiên, nếu quan sát từ phía trái shimote sân khấu, Bunraku sẽ đặc biệt hơn nhiều. Lý do cần nhìn từ phía bên trái shimote bởi từ góc độ này có thể quan sát đầy đủ từng phần trong cấu trúc sân khấu, kể cả bục yuka ở bên phải kamite. Sân khấu được phân chia bởi các vách ngăn gọi là tesuri. Vách ngăn đầu tiên gần khán giả nhất ở rìa sân khấu. Có một sàn thấp funazoko phía sau vách ngăn bên ngoài. Sàn funazoko thấp hơn một bậc so với sàn sân khấu mà khán giả nhìn thấy. Khi những người múa rối mang guốc sân khấu cao đứng trên sàn funazoko sẽ tạo ra ảo giác rằng con rối đang đứng ngay trên mặt đất. Ngoài ra, có một vách ngăn bên trong lùi xa hơn và cao hơn so với sàn funazoko. Khi người điều khiển đứng đó, con rối dường như đang đứng trên chiếu tatami hoặc sàn cao hơn mặt đất trong trường hợp có hoạt cảnh trong nhà.

Góc nhìn từ phía bên trái sân khấu

Ở sân khấu bên trái tức khu vực kamite từ góc độ khán giả, có bục yuka là khu vực dành cho người kể chuyện Tayu và người chơi Shamisen ngồi và biểu diễn. Bục yuka được thiết kế để có thể xoay tròn, giúp luân phiên thay đổi một cách linh hoạt các người kể chuyện Tayu và nhạc công Shamisen trong suốt quá trình biểu diễn.

Bục yuka – vị trí của người kể chuyện Tayu và nhạc công Shamisen

Những tác động của Bunraku

Kể từ Thế chiến thứ hai, Bunraku đã phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ của chính phủ để tồn tại, mặc dù mức độ phổ biến của nó ngày càng tăng trong những năm gần đây. Dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Bunraku, các buổi biểu diễn thường xuyên được tổ chức ngày nay tại Nhà hát Quốc gia ở TokyoNhà hát Quốc gia Bunraku ở Osaka. Các tour biểu diễn Bunraku đã được đón nhận nhiệt tình ở các thành phố trên thế giới. Osaka là nhà của đoàn kịch do chính phủ tài trợ tại Nhà hát Bunraku Quốc gia. Đoàn kịch thường diễn từ năm vở trở lên mỗi năm, mỗi vở diễn trong vòng từ 2 đến 3 tuần ở Osaka trước khi chuyển đến Tokyo diễn tại Nhà hát Quốc gia.

Kể từ sau thế chiến thứ II, số lượng đoàn kịch chỉ còn dưới 30, phần lớn các đoàn chỉ biểu diễn 1 hay 2 lần một năm, thường kết hợp với các lễ hội địa phương. Tuy vậy, một vài đoàn kịch vùng vẫn tiếp tục biểu diễn duy trì hoạt động, mở rộng trình diễn và đào tạo không chỉ là các học viện trong nước mà còn với các học viện đến từ nhiều quốc gia khác như Mỹ, Nga, Australia,…

Sự hâm mộ kịch rối Bunraku ngày càng tăng đã góp phần vào việc thành lập đoàn kịch rối truyền thống Nhật Bản đầu tiên ở Bắc Mỹ. Từ năm 2003, Đoàn kịch rối Bunraku Bay, đặt trụ sở tại Đại học Missouri (Columbia, Missouri), đã diễn tại các nơi vòng quanh nước Mỹ, bao gồm Trung tâm biểu diễn nghệ thuật Kennedy và Viện Smithsonian.

Ở châu Âu và châu Mỹ, cụm từ “bunraku” thường được dùng trong giới nghệ sĩ rối để miêu tả các con rối điều khiển theo lối tương tự với các nhà hát kịch rối Bunraku truyền thống Nhật Bản, ngược lại với rối tay, rối gậy, rối bóng, rối thường. Nét đặc trưng của “bunraku” phương Tây thường bao gồm nhiều nghệ sĩ rối và có thể nhìn thấy họ, trực tiếp điều khiển rối.

Việc sử dụng cụm từ này làm một số người theo chủ nghĩa thuần túy quan ngại, nhưng các nghệ sĩ rối phương Tây thấy rằng từ này khá tiện dụng trong việc miêu tả phong cách rối ảnh hưởng từ truyền thống Nhật Bản mà không một cụm từ tiếng Anh súc tích nào có được.

Thực hiện: Y.ink
Nguồn: https://www2.ntj.jac.go.jp,
https://www.princeton.edu, https://factsanddetails.com

Cùng tác giả

#Tag

bunraku kịch rối nghệ thuật sân khấu nhật bản series nghệ thuật cổ điển Nhật Bản văn hóa nhật bản Y.ink

iDesign Must-try

Tất tần tật về quy trình tạo tác một chiếc mặt nạ Noh truyền thống của Nhật Bản
Tất tần tật về quy trình tạo tác một chiếc mặt nạ Noh truyền thống của Nhật Bản
Noh là loại hình nghệ thuật sân khấu sớm nhất ở Nhật Bản và vẫn được biểu diễn cho đến ngày nay. Được phát triển vào thế kỷ 14, Noh…
‘Underground Library’ - Thư viện ngầm dành cho các mọt sách tại Nhật Bản
‘Underground Library’ - Thư viện ngầm dành cho các mọt sách tại Nhật Bản
Những gò cỏ nhấp nhô ở Cánh đồng Kurkku đã ngụy trang thành một khu vực thiền định để đọc sách và nghỉ ngơi. Được khai trương vào tháng trước…
Những chiếc bánh mì phát sáng khó tin đến từ Yukiko Morita
Những chiếc bánh mì phát sáng khó tin đến từ Yukiko Morita
Nghệ sĩ người Nhật Bản đồng thời là một cựu thợ làm bánh – Yukiko Morita đã đưa tình yêu bánh mì vào công việc sáng tạo của mình bằng…
Heta-uma - Khi những bức tranh xấu mà lại đẹp
Heta-uma - Khi những bức tranh xấu mà lại đẹp
Vì sao heta-uma lại có nghĩa là 'xấu mà đẹp'? Phong cách thẩm mỹ này nhằm ám chỉ điều gì?
Gạt bỏ những cảm xúc tiêu cực trong thế giới ảo với vườn thiền cát của Yuki Kawae
Gạt bỏ những cảm xúc tiêu cực trong thế giới ảo với vườn thiền cát của Yuki Kawae
Rời khỏi màn hình điện thoại tràn ngập những tin tức tiêu cực, vườn thiền cát được tạo ra bởi Yuki Kawae là liều thuốc giúp giải toả những mối…
Khi đạo diễn Akira Kurosawa cầm cọ
Khi đạo diễn Akira Kurosawa cầm cọ
Đạo diễn Akira Kurosawa là cái tên đằng sau hàng loạt bộ phim kinh điển của điện ảnh Nhật Bản thời hoàng kim. Nhưng không chỉ làm phim, ông còn…